ĐẦU TƯ CHO NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO Ở VIỆT NAM (06/09/2014)Năng lượng tái tạo là khái niệm để chỉ những nguồn năng lượng có trữ lượng gần như vô tận, có tiềm năng lâu dài và thân thiện với môi trường như: gió, bức xạ mặt trời, thủy triều, khí sinh học(biogas), gỗ, sinh khối (rơm, trấu, lá cây)… Việc sử dụng năng lượng tái tạo cũng chính là một trong các động lực mới của nền Kinh tế xanh(KTX) đó là BVMT, phát triển công nghệ sản xuất sạch và năng lượng sạch. Việc phát triển nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) của nước ta được đánh giá là chậm so với sự phát triển của khu vực và trên thế giới mặc dù có nhiều tiềm năng. Năm 1995 thế giới bắt đầu “thu hoạch” các dạng NLTT thì ở nước ta mới manh nha việc phát triển NLTT nhỏ lẻ ở vùng sâu, vùng xa. Năm 2000, thế giới có bước nhảy vọt về NLTT như ở Đức với 6.500 MW từ gió, thì ở nước ta NLTT dường như không có, mới nhắm chủ lực vào thủy điện nhỏ và cực nhỏ. Với vị trí địa lý, khí hậu và các hoạt động nông nghiệp, các chuyên gia trong và ngoài nước đều đánh giá Việt Nam có nguồn tài nguyên NLTT dồi dào và đa dạng gồm: thủy điện nhỏ, năng lượng gió, năng lượng mặt trời (NLMT); sinh khối, địa nhiệt. Theo ước tính, Việt Nam có thể phát triển điện gió ở mức độ tốt trên diện tích chiếm khoảng 8% tổng diện tích, tương ứng với 102.000MW. Nguồn NLMT của Việt Nam cũng được đánh giá tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á với khoảng 2.000-2.500 giờ nắng và cường độ bức xạ trung bình khoảng 4,5kWh/m2/ngày, tương đương với tiềm năng 43,9 triệu tấn dầu quy đổi/năm. Một số nguồn năng lượng tái tạo chính ở Việt Nam - Điện Mặt trời: Tiềm năng năng lượng Mặt trời được phản ánh qua số giờ nắng, trung bình năm ở nước ta có khoảng 1.400-3.000 giờ nắng, do đó, việc khai thác tiềm năng năng lượng Mặt trời ở Việt Nam là hoàn toàn khả thi. Nhà máy Intel đã đầu tư khoảng 1,1 triệu USD vào hệ thống năng lượng điện mặt trời trong khu vực văn phòng là hệ thống điện mặt trời lớn nhất tại Việt Nam. Hệ thống hoạt động trên tổng diện tích 3.270m2, được làm từ 1092 tấm pin năng lượng mặt trời cùng 21 bộ biến điện được kết nối với nhau bởi hơn 10.000m dây cáp. Dự án có khả năng phát được 321.000KWh điện và hạn chế tới 221.300kg lượng khí CO2 thải ra hàng năm tương đương với số khí CO2 thải ra từ 610 chiếc xe máy lưu hành trên các đường phố ở các đô thị nước ta hiện nay. - Điện gió: Tiềm năng điện gió của Việt Nam rất lớn, lớn hơn cả các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á. Ngân hàng Thế giới, 2001 đánh giá, tiềm năng lý thuyết tới 500GW ở độ cao 65m (tốc độ gió trung bình > 6m/s) và thuận lợi cho việc triển khai điện gió thương mại.Theo các nghiên cứu,tiềm năng điện gió trên đất liền quy mô lớn được đánh giá có công suất lý thuyết lên đến 120-160 GW,với phần lớn các tiềm năng khai thác nằm dọc ở khu vực ven biển Đông-Đông Nam. - Năng lượng sinh khối: Theo cách hiểu hiện nay, thì sinh khối (biomass) là nhiên liệu rắn trên cơ sở sinh khối, còn nhiên liệu sinh học (biofuel) là những nhiên liệu lỏng được lấy từ sinh khối và khí sinh học (biogas) là sản phẩm của quá trình phân giải yếm khí của các chất hữu cơ. Xu thế chung của thế giới hiện tại là xúc tiến sử dụng năng lượng tái tạo sinh học, đó là năng lượng thu được từ các phụ phẩm nông nghiệp, chất thải sinh học như: rơm rạ, trấu, bã mía, vỏ dừa, gáo dừa, củi… Năng lượng sinh khối được xem là dạng năng lượng tái tạo, trữ lượng lớn, giá thành rẻ có thể cạnh tranh được về hiệu quả kinh tế so với các nguồn năng lượng khác. Là một nước nông nghiệp nên hàng năm các phế thải sau thu hoạch và sau chế biến như: Rơm rạ, trấu, bã mía... đã tạo ra nguồn sinh khối dồi dào, tương đương khoảng 43-46 triệu tấn dầu quy đổi. Ở Việt Nam, theo tổ chức nông lương thế giới (FAO) mỗi năm có khoảng 35 triệu tấn rơm rạ, hơn 4 triệu tấn trấu; 2,6 triệu tấn bã mía và 3,4 triệu tấn thân,lõi ngô. Tính toán sơ bộ hàng năm nước ta có khoảng 45 triệu tấn phế phụ phẩm nông nghiệp. Ngoài ra, theo dự báo thì tổng lượng chất thải rắn (CTR) phát sinh từ nhiều nguồn vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng trong những thập kỷ tới đây, đặc biệt ở các đô thị lớn, khu du lịch. Bên cạnh các phế phụ phẩm nông nghiệp thì các chất thải động vật như phân trâu bò, lợn, dê có thể sử dụng như nguồn năng lượng sinh khối (Biogas). Tiềm năng năng lượng khí sinh học xấp xỉ 10 tỷ m3/năm từ các nguồn rác thải, chất thải gia súc và các phế phụ phẩm nông nghiệp. Do đó, cùng với phát triển chăn nuôi, biogas là một trong những nguồn năng lượng quan trọng. Sử dụng công nghệ biogas là giải pháp hữu hiệu cho phép kết hợp hài hòa giữa cung cấp năng lượng với giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đầu vào cho các hầm biogas có thể được phân thành 2 nhóm: động vật và cây trồng - Các nguồn nhóm động vật bao gồm phân động vật, phân người và chất thải từ các nhà máy chế biến thủy sản và các cơ sở giết mổ. Trong thực tế, chất thải động vật được ưu tiên lựa chọn vì dễ thu gom và phân hủy nhanh hơn. Các nguồn từ cây trồng như rơm rạ, ngô, khoai lang… Ở VN năm 2010 sản lượng lúa là 40 triệu tấn, năm 2011 tăng thêm 2,41 triệu tấn, năm 2012 tăng thêm 3,67 triệu tấn so với năm 2010. Tương ứng với sản lượng lúa năm 2010 sẽ sinh ra nhiều triệu tấn rơm,rạ và được sử dụng theo nhiều cách, gây lãng phí. Ngoài ra, diện tích trồng ngô cả nước ước tính 1,13 triệu ha. Quá trình chế biến nông sản đã thải ra môi trường khoảng 1 triệu tấn lõi ngô/năm. Lượng lõi ngô được sử dụng một phần làm chất đốt, băm nhỏ để trồng nấm, còn lại chủ yếu vứt bỏ bừa bãi ngoài vệ đường, dòng suối gây ô nhiễm môi trường. - Tiềm năng sản xuất nhiệt điện từ trấu: Theo tính toán, cứ mỗi tấn lúa tạo ra khoảng 200kg vỏ trấu. Riêng ở ĐBSCL thải ra khoảng 4 triệu tấn/năm,nhưng chỉ khoảng 10% trong số này được sử dụng. Tuy nhiên, hiện nguồn trấu này sử dụng lãng phí, chưa đạt hiệu quả và gây ô nhiễm môi trường. Theo tập quán người nông dân sẽ thu gom để xử lý thành mùn bón ruộng, sử dụng làm chất đốt để nấu ăn, nung gạch... Lượng trấu còn lại phải thải ra môi trường. Trong khi đó trên thế giới, nhiều nước nông nghiệp đã tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có này phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện. Trung Quốc, Ấn Độ, Mông Cổ... hàng năm sản xuất hàng trăm MW điện từ trấu. Theo số liệu tính toán từ 5 kg trấu tạo ra 1kW điện, như vậy với khối lượng hàng triệu tấn trấu/năm,chúng ta có thể thu lại được hàng trăm MW điện. Đây có thể là một nguồn nguyên liệu phong phú phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện trong tương lai. Hiện tại, điện trấu mới bắt đầu thực hiện ở các địa phương trên quy mô nhỏ lẻ mà chưa tính đến quy hoạch tổng thể trên phạm vi cả nước. Tỉnh An Giang có 2 Dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện từ trấu công suất 10 MW. Ngoài ra tại Tiền Giang, 1 dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện đốt trấu khoảng 10 MW, vốn đầu tư khoảng 18,6 triệu USD, đã được chính quyền chấp nhận. - Rác: Trên quan điểm môi trường thì rác thải không phải là thứ vứt đi, từ rác có thể tạo thành điện. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2010 cho thấy, mỗi ngày cả nước có khoảng 50.000 tấn rác thải sinh hoạt, trong đó có 27.000 tấn rác ở khu vực nông thôn, 23.000 tấn rác thải ở khu vực đô thị,nhưng chỉ có 20% số rác này được xử lý còn 80% là chôn lấp tự nhiên hoặc để lộ thiên. Trong thành phần rác thải có gần 20% chất thải khó hoặc không thể phân hủy, đây chính là nguyên nhân gây ô nhiễm rất nghiêm trọng môi trường, đe dọa trực tiếp tới sự phát triển bền vững của đất nước. Theo tính toán, từ 1 tấn rác hữu cơ, người ta có thể thu được từ 150 – 250m3 biogas. Ở thành phố Đà Nẵng, theo kế hoạch đến năm 2020 sẽ thực hiện Dự án: Khu liên hợp “Rác-Năng lượng”, gồm 2 hệ thống: + Rác- Điện từ chất thải rắn đô thị, bao gồm cả các trạm xử lý, tiêu hủy chất thải y tế và nguy hại. + Rác- Dầu Diesel từ chất thải công nghiệp và phế liệu nông lâm thủy sản, đảm bảo xử lý toàn bộ chất thải rắn sinh hoạt thu gom được mà không đòi hỏi phải phân loại rác từ nguồn, dự kiến 750 tấn /ngày và sản xuất 21 MW điện và xử lý toàn bộ chất thải công nghiệp gốc hydrocacbon, chất thải y tế và chất thải nguy hại phát sinh ở Tp.Đà Nẵng, với tỷ lệ phải chôn lấp sau xử lý dưới 5% . - Địa nhiệt: Nguồn năng lượng địa nhiệt cũng phong phú với 200 điểm nước nóng, nước khoáng nhưng cũng chưa được tận dụng khai thác mà chủ yếu sử dụng cho mục đích du lịch và chưa có giải pháp nào được đưa ra để khai thác và tận dụng nguồn NLTT này. Theo khảo sát, Việt Nam có khoảng 264 nguồn, suối nước nóng phân bố tương đối đều trên cả nước, như Kim Bôi (Hòa Bình), Thạch Bích (Quảng Ngãi), Bình Châu (Bà Rịa – Vũng Tàu) với nhiệt độ trung bình từ 70-100oC ở độ sâu 3km. Các nguồn nhiệt này có khả năng xây dựng các nhà máy điện địa nhiệt có công suất từ 3 đến 30 MW. Riêng khu vực từ Quảng Bình đến Khánh Hòa - nơi có các nguồn địa nhiệt với nhiệt độ từ 70-150oC được xem là có tiềm năng lớn để khai thác và xây dựng các nhà máy điện địa nhiệt với tổng công suất khoảng 200MW. Hiện tại, việc sử dụng nguồn năng lượng địa nhiệt ở Việt Nam hầu như chỉ dừng lại ở sấy nông sản. Các nhà khoa học thuộc Tổng cục địa chất đã sử dụng nước nóng 64oC và 85oC từ giếng khoan để sấy chè, cùi dừa, sắn khoai, quả, dược liệu./. LVK
CÁC TIN KHÁC
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |